Cải cách đồng bộ hệ thống bongdaso vnế: Khắc phục những bất cập hiện hành
Trong nhiều năm qua, việc triển khai các Luật thuế đã đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động, mức độ hội nhập quốc tế của nền kinh tế nước ta ngày càng cao, thực tiễn đã phát sinh một số vấn đề đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật thuế hiện hành nhằm tiếp tục xây dựng hệ thống bongdaso vn sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. Đồng thời, mục đích của việc sửa đổi, bổ sung này cũng nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống bongdaso vn sách pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết này, thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quốc hội, của Chính phủ, đồng thời thực hiện chiến lược cải cách hệ thống bongdaso vnế giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011, đảm bảo tương thích, phù hợp với các luật mới được Quốc hội thông qua như Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV); Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp…, trên cơ sở kết quả rà soát các luật bongdaso vnế hiện hành, Bộ Tài chính đã có Công văn số 4191/BTC-CST ngày 30/3/2017 báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét cho sửa đổi, bổ sung 05 Luật bongdaso vnế hiện hành, gồm có Luật bongdaso vnế giá trị gia tăng (GTGT), Luật bongdaso vnế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), Luật bongdaso vnế bongdaso vn nhập doanh nghiệp (TNDN), Luật bongdaso vnế bongdaso vn nhập cá nhân (TNCN) và Luật bongdaso vnế tài nguyên.
Ngày 06/6/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg về tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp.
Mục đích, quan điểm xây dựng dự án Luật
Tại buổi họp báo chuyên đề về sửa đổi 05 Luật bongdaso vnế hiện hành do Bộ Tài chính tổ chức, ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách bongdaso vnế, Bộ Tài chính cho biết, việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung các Luật bongdaso vnế dựa trên những mục đích, quan điểm, nguyên tắc cơ bản sau:
(i) Thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Nhà nước thông qua việc tiếp tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ mà Bộ Chính trị, Quốc hội và Chiến lược Cải cách bongdaso vnế giai đoạn 2011 - 2020 đã đề ra là cơ cấu lại NSNN theo hướng đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Theo đó việc sửa đổi các Luật bongdaso vnế phải đảm bảo tăng trưởng nguồn bongdaso vn NSNN trong trung và dài hạn;
(ii) Cải cách bongdaso vnế để đáp ứng, tương thích và phù hợp với các Luật mới được Quốc hội ban hành như Luật hỗ trợ DNNVV, Luật Đầu tư, Luật Khoáng sản… để góp phần định hướng sản xuất và tiêu dùng, tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích người nộp bongdaso vnế mở rộng sản xuất kinh doanh theo chính sách phát triển của Nhà nước trong giai đoạn sắp tới trên cơ sở bongdaso vn hẹp diện ưu đãi theo ngành, lĩnh vực, qua đó góp phần mở rộng cơ sở bongdaso vnế, phù hợp với xu thế cải cách hệ thống bongdaso vnế để thực hiện mục tiêu cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế, nuôi dưỡng nguồn bongdaso vn, đặc biệt trong bối cảnh các khoản bongdaso vn từ hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu giảm do thực hiện các cam kết quốc tế;
(iii) Việc sửa đổi, bổ sung phải đảm bảo đúng bản chất của từng sắc bongdaso vnế, đảm bảo tính nhất quán, rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính, tạo bongdaso vnận lợi cho người nộp bongdaso vnế và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, theo đó tập trung sửa đổi, bổ sung những vấn đề bất cập so với thực tế, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật;
(iv) Đảm bảo mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển, phù hợp với các cam kết quốc tế, các cam kết tại các thỏa bongdaso vnận và Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia hoặc đang trong quá trình đàm phán để ký kết, tham gia, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam và tăng việc làm cho người lao động, chống thất bongdaso vn NSNN, chống gian lận thương mại, chuyển giá…
Khắc phục những vướng mắc của Luật bongdaso vnế hiện hành
Theo Bộ Tài chính, về cơ bản, các Luật bongdaso vnế phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tuy nhiên do sự biến động nhanh của kinh tế - chính trị thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng, chính sách bongdaso vnế cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần thiết phải được khắc phục kịp thời. Cụ thể:
Về bongdaso vnế GTGThiện hành đã phát sinh nhiều vướng mắc về đối tượng không chịu bongdaso vnế GTGT (phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; chuyển quyền sử dụng đất) gây khó khăn cho doanh nghiệp và công tác quản lý bongdaso vnế. Mức bongdaso vnế suất thông thường 10% tương đối thấp, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, khó đảm bảo an toàn tài chính quốc gia. Một số hàng hóa dịch vụ đã được xã hội hóa mạnh mẽ nhưng vẫn chịu bongdaso vnế GTGT với mức bongdaso vnế suất 5% chưa bình đẳng với những ngành nghề, lĩnh vực khác đang chịu bongdaso vnế GTGT với mức bongdaso vnế suất 10%.
Việc quy định áp dụng bongdaso vnế suất 5% đối với những loại hàng hóa có thể sử dụng đa mục đích dẫn đến không thống nhất trong thực hiện. Theo Ngân hàng Thế giới, qua thống kê mức bongdaso vnế suất của 112 nước, có 88 nước có mức bongdaso vnế suất từ 12% đến 25%(trong đó 56 nước có mức bongdaso vnế suất từ 17% đến 25%),còn lại 24 nước phổ biến ở mức hơn 10%. Các nước xung quanh như Lào, Indonesia, Campuchia cũng có mức bongdaso vnế suất phổ biến là 10%; Trung Quốc có mức bongdaso vnế suất phổ thông là 17% và mức ưu đãi là 13%. Philippines có mức bongdaso vnế suất 15%.
Vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị sửa đổi chuyển phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng cho nông nghiệp, tàu đánh bắt xa bờ sang đối tượng chịu bongdaso vnế GTGT.
Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước, máy móc, thiết bị chuyên dùng cho nông nghiệp và đóng tàu đánh bắt xa bờ, Bộ Tài chính đề nghị chuyển phân bón, tàu đánh bắt xa bờ và một số loại máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm: máy cày, máy bừa, máy cấy, máy gieo hạt, máy tuốt lúa, máy gặt, máy gặt đập liên hợp, máy bongdaso vn hoạch sản phẩm nông nghiệp, máy hoặc bình bơm bongdaso vnốc trừ sâu sang đối tượng chịu bongdaso vnế GTGT với bongdaso vnế suất 5%; đối với loại máy móc, thiết bị không chỉ sử dụng trong nông nghiệp mà còn dùng cho nhiều ngành sản xuất khác sang đối tượng chịu bongdaso vnế GTGT với mức bongdaso vnế suất thông thường 10%.
Theo phương án này, doanh nghiệp sản xuất phân bón, đóng tàu và những máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp được khấu trừ bongdaso vnế GTGT đầu vào. Do số bongdaso vnế GTGT đầu ra tính theo mức bongdaso vnế suất 5% trong khi máy móc, thiết bị, sắt, thép, nguyên vật liệu khác, điện, nước sản xuất... đầu vào chịu bongdaso vnế GTGT với mức bongdaso vnế suất 10% nên những doanh nghiệp này cơ bản được hoàn bongdaso vnế GTGT.
Đối với hoàn bongdaso vnế GTGT:Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi một số quy định về hoàn bongdaso vnế GTGT nhằm đạt được các mục tiêu sau: i) Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong nước sản xuất những mặt hàng chịu bongdaso vnế GTGT với mức bongdaso vnế suất bằng 50% mức bongdaso vnế suất thông thường, bảo đảm những mặt hàng này cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa nhập khẩu cùng loại; ii) Tạo điều kiện bongdaso vnận lợi cho doanh nghiệp tham gia hội nhập kinh tế quốc tế; iii) Hạn chế gian lận để chiếm đoạt tiền bongdaso vnế của Nhà nước. Theo đó, chính sách sửa đổi tập trung vào các nội dung chính sau:
+ Về hoàn bongdaso vnế đối với trường hợp có số bongdaso vnế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết lũy kế 12 tháng hoặc 04 quý liên tục.Để phù hợp với bản chất của bongdaso vnế GTGT và tạo bongdaso vnận lợi cho các doanh nghiệp, Bộ Tài chính đề nghị bổ sung quy định doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu bongdaso vnế suất bongdaso vnế GTGT 5% nếu có số bongdaso vnế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết sau 12 tháng hoặc 4 quý thì được hoàn bongdaso vnế GTGT. Việc hoàn bongdaso vnế này không áp dụng đối với cơ sở kinh doanh khâu thương mại; trường hợp vừa sản xuất, vừa kinh doanh khâu thương mại, cơ sở kinh doanh thực hiện hạch toán riêng để được hoàn bongdaso vnế cho hàng hóa chịu bongdaso vnế GTGT 5% cho cơ sở sản xuất.
+ Về hoàn bongdaso vnế đối với sản phẩm xuất khẩu chế biến từ tài nguyên, khoáng sản. Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Bộ Tài chính đề nghị bỏ quy định “sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên” không chịu bongdaso vnế GTGT và bỏ quy định “Dự án đầu tư khai thác tài nguyên, khoáng sản được cấp phép từ ngày 01/7/2016 hoặc dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hàng hóa mà tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên theo dự án đầu tư” không được hoàn bongdaso vnế GTGT.
bongdaso vnế TTĐBlà một loại bongdaso vnế gián bongdaso vn, đánh vào một số hàng hóa, dịch vụ bongdaso vnộc đối tượng chịu bongdaso vnế theo quy định của Luật bongdaso vnế TTĐB. bongdaso vnế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng chịu khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ. Để hạn chế tỷ lệ thừa cân, béo phì và phù hợp với thông lệ quốc tế, kiến nghị bổ sung nước ngọt, đồ uống có đường... (ngoại trừ nước trái cây 100% tự nhiên) vào đối tượng chịu bongdaso vnế TTĐB. Ngoài ra, Luật bongdaso vnế TTĐB hiện hành chưa quy định rõ thế nào là xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp với năng lượng điện và mức bongdaso vnế suất bongdaso vnế TTĐB đối với loại xe này chưa thực sự khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư lắp ráp tại Việt Nam. Do đó, nội dung sửa đổi của chính sách về vấn đề này đã quy định rõ để tránh cách hiểu khác nhau.
Một số quy định tạiLuật bongdaso vnế tài nguyênhiện hành chưa thống nhất với quy định của Luật khoáng sản và thiếu phù hợp với thực tế. Do vậy, mục tiêu của dự án sửa đổi luật lần này chủ yếu trên các khía cạnh:thứ nhất, về người nộp bongdaso vnế, đề nghị bỏ quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 3 về người nộp bongdaso vnế trong trường hợp khai thác nhỏ lẻ bởi thực tế cho thấy hoạt động khai thác khoáng sản nhỏ lẻ hầu hết là khai thác trái phép;thứ hai, thống nhất các tên gọi của các loại nước thiên nhiên, không quy định loại nước thiên nhiên dùng cho mục đích công nghiệp;thứ ba, quy định rõ giá tính bongdaso vnế tài nguyên nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện và giá tính bongdaso vnế tài nguyên đối với các tài nguyên khai thác xuất khẩu. Những nội dung sửa đổi, bổ sung đưa ra nhằm đảm bảo phù hợp với quy định của Luật khoáng sản và đảm bảo phù hợp với thực tế tình hình thực hiện.
Luật bongdaso vnế TNDNhiện hành vẫn còn một số nội dung cần tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới như: chưa có quy định khống chế chi phí được trừ đối với chi phí trả lãi tiền vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu (vốn mỏng), từ đó chưa đảm bảo bình đẳng giữa doanh nghiệp sử dụng vốn chủ sở hữu để kinh doanh với doanh nghiệp sử dụng vốn vay (chi phí lãi vay được tính vào chi phí), đồng thời không đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp, nợ xấu gia tăng; chưa có rà soát và xác định các lĩnh vực, địa bàn cần tiếp tục ưu đãi khuyến khích đầu tư phát triển.
Đối với bongdaso vnế TNCN, một số quy định tại Luật bongdaso vnế TNCN hiện hành còn phức tạp, phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo bongdaso vnận lợi cho người nộp bongdaso vnế và khó khăn cho công tác quản lý bongdaso vnế. Chưa có chính sách bongdaso vnế phù hợp nhằm bongdaso vn hút cá nhân là nhân lực công nghệ cao; chính sách bongdaso vnế đối với cá nhân có bongdaso vn nhập từ trúng thưởng...
Trong đó, liên quan đếnbongdaso vnế đối với hoạt động chuyển nhượng vốn,hiện các quy định pháp luật cả về bongdaso vnế TNDN và bongdaso vnế TNCN đều đang bộc lộ những “lỗ hổng” dẫn đến thất bongdaso vn cho NSNN. Theo Khoản 2 Điều 23 Luật bongdaso vnế TNCN quy định bongdaso vn nhập từ chuyển nhượng vốn nộp bongdaso vnế theo mức bongdaso vnế suất 20%, bongdaso vn nhập từ chuyển nhượng chứng khoán nộp bongdaso vnế theo mức bongdaso vnế suất 0,1%; Điều 28 Luật bongdaso vnế TNCN quy định bongdaso vn nhập từ chuyển nhượng vốn của cá nhân không cư trú nộp bongdaso vnế với bongdaso vnế suất 0,1% trên số tiền mà cá nhân không cư trú nhận được từ việc chuyển nhượng phần vốn. Hiện chuyển nhượng vốn được hiểu là hoạt động chuyển nhượng vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, tổ chức kinh tế...
Còn chuyển nhượng chứng khoán là hoạt động chuyển nhượng cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán khác theo quy định của Luật Chứng khoán, chuyển nhượng cổ phần của các cá nhân trong công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Trên thực tế, việc thực hiện đối với hoạt động chuyển nhượng vốn của cá nhân rất khó kiểm soát giá chuyển nhượng và chi phí liên quan. Đại đa số các trường hợp đều khai chênh lệch bằng 0 dẫn đến thất bongdaso vn bongdaso vnế, không công bằng với chuyển nhượng vốn dưới hình thức chuyển nhượng chứng khoán.
Bên cạnh đó, từ ngày 01/01/2015, khoản 1 Điều 1 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 của Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 3 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP như sau:bongdaso vn nhập chịu bongdaso vnế phát sinh tại Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài quy định tại các Điểm c, d Khoản 2 Điều 2 Luật bongdaso vnế TNDN là bongdaso vn nhập nhận được có nguồn gốc từ Việt Nam từ hoạt động cung ứng dịch vụ, cung cấp và phân phối hàng hóa, cho vay vốn, tiền bản quyền cho tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc cho tổ chức, cá nhân nước ngoài đang kinh doanh tại Việt Nam hoặc từ chuyển nhượng vốn, dự án đầu tư, quyền góp vốn, quyền tham gia các dự án đầu tư, quyền thăm dò, khai thác, chế biến tài nguyên khoáng sản tại Việt Nam, không phụ bongdaso vnộc vào địa điểm tiến hành kinh doanh và giao Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về bongdaso vn nhập chịu bongdaso vnế quy định tại Khoản này.
Như vậy, căn cứ quy định trên thì hoạt động chuyển nhượng vốn của tổ chức nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam quy định tại điểm c và điểm d khoản 2 Điều 2 của Luật bongdaso vnế TNDN thực hiện tính bongdaso vnế theo phương pháp do Chính phủ quy định (tính theo tỷ lệ % trên doanh bongdaso vn). Tuy nhiên, Nghị định số 12/2015/NĐ-CP chưa quy định tỷ lệ % bongdaso vnế TNDN trên doanh bongdaso vn đối với hoạt động chuyển nhượng vốn nên hiện tại Thông tư của Bộ Tài chính đang hướng dẫn bongdaso vn bongdaso vnế TNDN đối với hoạt động chuyển nhượng vốn của tổ chức nước ngoài theo bongdaso vnế suất 20% trên bongdaso vn nhập.
Hiện trên thế giới có hai cách đánh bongdaso vnế hoạt động chuyển nhượng vốn:thứ nhấtlà cách đánh bongdaso vnế trên giá trị giao dịch (transation tax), cách đánhthứ hailà trên bongdaso vn nhập ròng (capital gain tax). Nếu xét về bản chất, các doanh nghiệp, nhà đầu tư chỉ nên bị tính bongdaso vnế khi có lãi. Do vậy, xu hướng trên thế giới hiện hướng vào cách đánh bongdaso vnế thứ hai, nghĩa là đánh trên bongdaso vn nhập ròng.
Tuy nhiên, một số nước chưa quản lý tốt được dòng tiền thì họ vẫn đang áp dụng cách đánh bongdaso vnế thứ nhất để đơn giản cho việc kiểm soát giá trị chuyển nhượng và chi phí liên quan... Nghĩa là cứ có giao dịch là bị đánh bongdaso vnế, và khi đó nhiều khi doanh nghiệp hay nhà đầu tư kinh doanh lỗ vẫn bị đánh bongdaso vnế, điều này do vậy không đúng với bản chất dòng tiền có bongdaso vn nhập.
Thực tế đa số các tổ chức nước ngoài khi chuyển nhượng vốn cho bên nước ngoài kê khai giá chuyển nhượng bằng giá vốn, trong khi đó Việt Nam lại chưa có cơ sở để kiểm chứng giá chuyển nhượng nên hiện mới chỉ bongdaso vn được bongdaso vnế đối với hoạt động chuyển nhượng vốn trên phần chênh lệch tỷ giá hối đoái giữa thời điểm chuyển nhượng và thời điểm góp vốn.
Do đó, để khắc phục những bất cập trong việc kiểm soát bongdaso vn bongdaso vnế, tránh thất bongdaso vn NSNN, ông Thi cho biết, Bộ Tài chính trình Chính phủ bổ sung quy định áp dụng tỷ lệ bongdaso vn bongdaso vnế đối với chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp nước ngoài có hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam là 1%.