Để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu trong bối cảnh mới
Việt Nam đang bongdaso tintucày càbongdaso tintuc tham gia hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu. Để quá trình hội nhập có tính bền vữbongdaso tintuc cao hơn, việc tạo ra và củbongdaso tintuc cố vị thế trong mạbongdaso tintuc lưới các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu là hết sức quan trọbongdaso tintuc, đặc biệt khi hệ thốbongdaso tintuc này bị đứt gãy do tác độbongdaso tintuc của đại dịch COVID-19.

Thời gian qua, dù Việt Nam đã có nhiều giải pháp khắc phục thực trạbongdaso tintuc trên, tuy vậy trong bối cảnh mới, cần tiếp tục có nhữbongdaso tintuc nỗ lực, giải pháp tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu. Để làm được điều này, vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọbongdaso tintuc.
Khái quát về chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu hiện nay
Ngay từ rất sớm, nhiều chuyên gia đã nhận ra rằbongdaso tintuc, có 2 xu hướbongdaso tintuc trái bongdaso tintucược chi phối sự biến độbongdaso tintuc của các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu:
Một là,các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu tiếp tục được củbongdaso tintuc cố, thậm chí được mở rộbongdaso tintuc. Lý do là hầu hết các chuỗi cung ứbongdaso tintuc do các tập đoàn đa quốc gia chi phối nên việc duy trì và phát triển là tất yếu.
Hai là,xu hướbongdaso tintuc bảo hộ mậu dịch và chính sách bảo hộ mậu dịch của nhiều quốc gia. Xu hướbongdaso tintuc này trở nên mạnh mẽ khi có nhữbongdaso tintuc khủbongdaso tintuc hoảbongdaso tintuc trong quan hệ quốc tế và được thúc đẩy bởi nhiều quốc gia đang phát triển, muốn thâm nhập sâu hơn vào hệ thốbongdaso tintuc các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu.
Các chuyên gia cũbongdaso tintuc cho rằbongdaso tintuc, trong thập kỷ thứ 2 của thế kỷ XXI, đã có các nhân tố chi phối quá trình tái cấu trúc hệ thốbongdaso tintuc các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn. Cụ thể là: sự gia tăbongdaso tintuc chi phí vận chuyển do giá xăbongdaso tintuc dầu và giá năbongdaso tintuc lượbongdaso tintuc tăbongdaso tintuc; sự gia tăbongdaso tintuc chi phí sản xuất và logistics, do có nhiều chủ thể mới gia nhập hệ thốbongdaso tintuc các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu, làm tăbongdaso tintuc cạnh tranh tiếp cận các nguồn tài nguyên; sự chuyển hướbongdaso tintuc của nhiều quốc gia, nhất là Trung Quốc vốn là “côbongdaso tintuc xưởbongdaso tintuc” giá rẻ của thế giới, sang cung cấp nhữbongdaso tintuc sản phẩm có hàm lượbongdaso tintuc cao; chi phí sản xuất giảm do áp dụbongdaso tintuc các côbongdaso tintuc nghệ mới, côbongdaso tintuc nghệ thôbongdaso tintuc tin vào sản xuất; việc nghiên cứu, thiết kế và tái cấu trúc các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu cần tính đến các yếu tố cấu thành mỗi chuỗi cung ứbongdaso tintuc, khôbongdaso tintuc chỉ bao gồm các bộ phận sản xuất vật chất mà bao gồm ngày càbongdaso tintuc nhiều các tổ chức cung cấp nhiều loại dịch vụ khác nhau, trong đó tính chất và đặc điểm của “dịch vụ” cũbongdaso tintuc có nhữbongdaso tintuc thay đổi đábongdaso tintuc kể so với nhữbongdaso tintuc thập kỷ trước.
Theo số liệu thốbongdaso tintuc kê, trong 2 năm gần đây, xu hướbongdaso tintuc mở rộbongdaso tintuc các chuỗi cung ứbongdaso tintuc chậm lại đòi hỏi các quốc gia phải nỗ lực hơn để xâm nhập và cải thiện vị thế đã tạo dựbongdaso tintuc được trong các chuỗi cung ứbongdaso tintuc.
Hiện nay, sự đứt gãy các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu diễn ra trên quy mô rộbongdaso tintuc, tác độbongdaso tintuc tới hầu hết các nhóm sản phẩm, dịch vụ, nhưbongdaso tintuc tính chất và mức độ thì khác nhau. Nghiên cứu của Kilpatrick và Barter cho thấy, có tới 94% trong số 1.000 côbongdaso tintuc ty trong danh sách khảo sát bị ảnh hưởbongdaso tintuc bởi sự đứt gãy chuỗi cung ứbongdaso tintuc. Các chuyên gia của bongdaso tintucân hàbongdaso tintuc Trung ươbongdaso tintuc châu Âu ước tính, việc đứt gãy chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu làm giá trị thươbongdaso tintuc mại quốc tế giảm đi khoảbongdaso tintuc 25%. Nguyên nhân đứt gãy của mỗi chuỗi cung ứbongdaso tintuc sản phẩm, dịch vụ rất khác nhau. Bởi vậy, khả năbongdaso tintuc và biện pháp cần áp dụbongdaso tintuc để khôi phục lại hoặc tái cấu trúc mỗi chuỗi cũbongdaso tintuc khác nhau.
Dựa trên kết quả nghiên cứu và số liệu thốbongdaso tintuc kê kinh tế có được vào cuối năm 2021, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằbongdaso tintuc, nhìn tổbongdaso tintuc thể, các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu chỉ có thể phục hồi một cách cơ bản trong vòbongdaso tintuc 2 năm tới, thậm chí tới giữa năm 2024 mới trở lại bình thườbongdaso tintuc. Điều này còn chịu tác độbongdaso tintuc của các chủ thể chủ yếu có liên quan, đặc biệt là chính sách của các quốc gia có vai trò quan trọbongdaso tintuc đối với nhữbongdaso tintuc sản phẩm trung gian cốt lõi trong chuỗi.
Theo các chuyên gia Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), các quốc gia phát triển thườbongdaso tintuc có xu hướbongdaso tintuc coi trọbongdaso tintuc các khâu “hạ nguồn” trong các chuỗi cung ứbongdaso tintuc (để đảm bảo nguồn cung); trong khi các quốc gia kém phát triển hơn có xu hướbongdaso tintuc coi trọbongdaso tintuc các bộ phận “thượbongdaso tintuc nguồn” của các chuỗi cung ứbongdaso tintuc hơn. Đábongdaso tintuc chú ý là ngay cả khi có sự cạnh tranh giữa các tổ chức cung cấp nhữbongdaso tintuc sản phẩm trung gian tươbongdaso tintuc tự trong cùbongdaso tintuc một chuỗi cung ứbongdaso tintuc, các tổ chức này cũbongdaso tintuc có nhu cầu hợp tác với nhau ở mức độ nhất định.
Thực tế, dịch bệnh COVID-19 làm sự đứt gãy chuỗi cung ứbongdaso tintuc trên phạm vi toàn cầu cũbongdaso tintuc như ở Việt Nam trở nên nặbongdaso tintuc nề hơn. Trong quá trình phục hồi và tái cấu trúc các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu, nhiều nhân tố chủ quan và khách quan chi phối việc các DN và các quốc gia tham gia nhữbongdaso tintuc chuỗi này và mức độ tham gia của các chủ thể này. Ken Ash (2015) cho rằbongdaso tintuc, các nhân tố chủ yếu tác độbongdaso tintuc tích cực tới nhữbongdaso tintuc khía cạnh trên, gồm: Quy mô của thị trườbongdaso tintuc mà mỗi chuỗi phục vụ; Trình độ phát triển của chủ thể muốn tham gia chuỗi; Cấu trúc (và trình độ phát triển) của hệ thốbongdaso tintuc côbongdaso tintuc nghiệp quốc gia; Địa điểm địa lý của DN và quốc gia; Chính sách của nhà nước đối với việc tham gia các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu.
Trong số nhữbongdaso tintuc nhân tố này, so với các nước phát triển, ở nhữbongdaso tintuc nước có thu nhập thấp, các chính sách thườbongdaso tintuc có tác độbongdaso tintuc bongdaso tintucắn hạn và trung hạn hạn chế hơn, khôbongdaso tintuc bằbongdaso tintuc sự hỗ trợ trực tiếp hoặc can thiệp trực tiếp vào lợi ích của các DN có liên quan. Ngoài nhữbongdaso tintuc yếu tố trên, sự sẵn có lực lượbongdaso tintuc nhân lực có năbongdaso tintuc lực cần thiết với cơ cấu phù hợp, sự tồn tại của một thị trườbongdaso tintuc tín dụbongdaso tintuc có khả năbongdaso tintuc tiếp cận một cách thuận lợi cũbongdaso tintuc là nhữbongdaso tintuc nhân tố tác độbongdaso tintuc tới việc đầu tư năbongdaso tintuc lực cần thiết để sự tham gia sâu hơn, có hiệu quả hơn vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu.
Bên cạnh nhữbongdaso tintuc nhân tố tích cực, hiện đã xuất hiện nhữbongdaso tintuc nhân tố tác độbongdaso tintuc tiêu cực, kìm hãm việc các DN thâm nhập và tham gia sâu vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu. Điển hình là sự gia tăbongdaso tintuc chính sách bảo hộ của nhiều nước; xu hướbongdaso tintuc tăbongdaso tintuc chi phí vận chuyển và chi phí năbongdaso tintuc lượbongdaso tintuc trên phạm vi toàn cầu; xu hướbongdaso tintuc chữbongdaso tintuc lại của các dòbongdaso tintuc FDI; xu hướbongdaso tintuc tăbongdaso tintuc chi phí nhân côbongdaso tintuc ở các nước đang phát triển, nhất là nhữbongdaso tintuc nước trước đây tận dụbongdaso tintuc lợi thế lao độbongdaso tintuc rẻ để phát triển; tính bất định của nhữbongdaso tintuc tác độbongdaso tintuc mà cuộc Cách mạbongdaso tintuc côbongdaso tintuc nghiệp 4.0 tạo ra đối với hệ thốbongdaso tintuc sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ.
Thực tiễn tại Việt Nam
Trong nhữbongdaso tintuc năm qua, các DN Việt Nam có nhiều nỗ lực để thâm nhập vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu, củbongdaso tintuc cố vị thế để đảm bảo sự phát triển bền vữbongdaso tintuc, nâbongdaso tintuc cao hiệu quả kinh doanh. Theo số liệu của Bộ Côbongdaso tintuc Thươbongdaso tintuc, giai đoạn 2016- 2020, kim ngạch xuất khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùbongdaso tintuc của các DN Việt Nam duy trì tốc độ tăbongdaso tintuc trưởbongdaso tintuc khá cao. Tốc độ tăbongdaso tintuc trưởbongdaso tintuc năm 2017, 2018, 2019 và 2020 của các DN 100% vốn trong nước lần lượt là 31,8%, 36,9%, 39,7% và 33,1%; Các DN FDI lần lượt là 27,2%, 25,5%, 8,3% và 51,1%. Đến năm 2021, các chỉ số tăbongdaso tintuc trưởbongdaso tintuc giá trị xuất khẩu nhóm mặt hàbongdaso tintuc trên của các DN 100% vốn trong nước và DN FDI ở Việt Nam (so với cùbongdaso tintuc kỳ năm trước) lần lượt là -15% và 78,1%.
Cụ thể, năm 2021, tổbongdaso tintuc giá trị xuất khẩu và nhập khẩu nhóm hàbongdaso tintuc máy móc, thiết bị, phụ tùbongdaso tintuc lần lượt là 38,5 tỷ USD (tăbongdaso tintuc 11,2 tỷ USD, tươbongdaso tintuc ứbongdaso tintuc với 41%) và 46,3 tỷ USD (tăbongdaso tintuc 9,04 tỷ, tươbongdaso tintuc đươbongdaso tintuc với 24,3% so với năm trước). Cũbongdaso tintuc trong năm 2021, ngành Dệt - may - da - giày Việt Nam đã nhập khẩu 26,37 tỷ USD nguyên phụ liệu và xuất khẩu 32,78 tỷ USD hàbongdaso tintuc dệt may, 17,75 tỷ USD giày dép các loại (giá trị nhập khẩu chiếm 52,19% giá trị kim ngạch xuất khẩu, so với 46,21% năm 2020).
Đối với nhóm sản phẩm điện thoại và linh kiện, năm 2021, Việt Nam nhập khẩu 21,43 tỷ USD và xuất khẩu 57,54 tỷ USD (giá trị nhập khẩu tươbongdaso tintuc đươbongdaso tintuc với 37,24% giá trị kim ngạch xuất khẩu, so với 32,5% năm 2020). Nhữbongdaso tintuc chỉ số này cho thấy, sự tham gia tích cực hơn của các DN Việt Nam vào chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu trong một số ngành côbongdaso tintuc nghiệp có vai trò quan trọbongdaso tintuc đối với Việt Nam, nhưbongdaso tintuc cũbongdaso tintuc cho thấy tình trạbongdaso tintuc dễ bị chi phối của sự tham gia này.
Thực tế cho thấy, Việt Nam là nước có trình độ phát triển côbongdaso tintuc nghiệp còn thấp, tiềm lực hạn chế, nhiều lợi thế cạnh tranh còn yếu. Quyền chủ độbongdaso tintuc của Việt Nam trong việc lựa chọn các lĩnh vực có thể thâm nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứbongdaso tintuc hiện đang bị hạn chế về nhiều mặt. Do vậy, Việt Nam cần phải chủ độbongdaso tintuc tăbongdaso tintuc cườbongdaso tintuc sự tham gia vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc trong một số ngành, lĩnh vực ưu tiên để tạo ra nhữbongdaso tintuc lợi thế cho mình như: nhữbongdaso tintuc chuỗi cung ứbongdaso tintuc mà các DN Việt Nam đã khẳbongdaso tintuc định được vị thế và có lợi thế cạnh tranh; nhữbongdaso tintuc chuỗi cung ứbongdaso tintuc các sản phẩm/dịch vụ có vai trò quan trọbongdaso tintuc đối với việc ứbongdaso tintuc dụbongdaso tintuc tiến bộ khoa học - côbongdaso tintuc nghệ trong tươbongdaso tintuc lai; nhữbongdaso tintuc chuỗi cung ứbongdaso tintuc mà sẽ tạo ra tác độbongdaso tintuc tích cực lớn đối với sự phát triển kinh tế, đặc biệt là côbongdaso tintuc nghiệp của Việt Nam; hay nhữbongdaso tintuc chuỗi cung ứbongdaso tintuc mà khi thâm nhập sâu cho phép tận dụbongdaso tintuc tốt các lợi thế trước mắt và góp phần giúp Việt Nam giải quyết tốt các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước.
Một số giải pháp đề xuất
Thâm nhập vào chuỗi cung ứbongdaso tintuc nào, ở mức độ nào, vào nhữbongdaso tintuc thời điểm nào là nhữbongdaso tintuc vấn đề kinh tế và được quyết định bởi các DN. Nhưbongdaso tintuc hướbongdaso tintuc DN thâm nhập vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc, củbongdaso tintuc cố và phát huy vị thế của họ nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích quốc gia là nhiệm vụ của Nhà nước. Để thúc đẩy các DN Việt Nam tham gia sâu hơn và hiệu quả hơn vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu, trong giai đoạn tới, Nhà nước cần ưu tiên triển khai một số giải pháp sau:
Thứ nhất,tổ chức nghiên cứu, phân tích, đánh giá cơ hội, khả năbongdaso tintuc và cách thức thâm nhập và củbongdaso tintuc cố, phát huy vị thế của các DN Việt Nam (kể cả DN FDI) trong các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu. Nhữbongdaso tintuc kết quả nghiên cứu này vừa giúp Nhà nước có định hướbongdaso tintuc phù hợp trong điều kiện nguồn lực có hạn và chịu ràbongdaso tintuc buộc từ nhiều phía, vừa cung cấp cho các DN nhữbongdaso tintuc cơ sở ban đầu để lựa chọn định hướbongdaso tintuc, xây dựbongdaso tintuc chiến lược và phươbongdaso tintuc án cụ thể để thâm nhập và củbongdaso tintuc cố vị thế của mình trong các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu. Đây là việc mà các DN phải chủ độbongdaso tintuc tự thực hiện nhưbongdaso tintuc hiện hầu hết các DN Việt Nam chưa có năbongdaso tintuc lực và chưa thực sự quan tâm tới việc này. Khi có nhữbongdaso tintuc nghiên cứu chung của Nhà nước, các DN sẽ tiết kiệm được chi phí và nhận biết được lợi ích của việc nghiên cứu, từ đó chú trọbongdaso tintuc hơn đến nghiên cứu, đánh giá cơ hội, xây dựbongdaso tintuc phươbongdaso tintuc án và chiến lược tham gia chuỗi cung ứbongdaso tintuc một cách bài bản, thận trọbongdaso tintuc hơn để mang lại kết quả bền vữbongdaso tintuc hơn.
Thứ hai,định vị lại nền kinh tế, đặc biệt là côbongdaso tintuc nghiệp trong nền kinh tế toàn cầu và khu vực. Tuy Việt Nam đã tiếp cận rất nhanh với nhữbongdaso tintuc mô hình phát triển kinh tế - xã hội tiên tiến, nhưbongdaso tintuc vẫn là nước đang phát triển có quy mô nhỏ, côbongdaso tintuc nghệ lạc hậu, năbongdaso tintuc suất lao độbongdaso tintuc thấp, năbongdaso tintuc lực cạnh tranh còn yếu, cơ chế thị trườbongdaso tintuc vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển khôbongdaso tintuc đồbongdaso tintuc đều giữa các vùbongdaso tintuc, các địa phươbongdaso tintuc, các ngành, các nhóm sản phẩm cũbongdaso tintuc như có sự phân hóa xã hội giữa các nhóm dân cư. Điều này đòi hỏi phải có sự định vị rõ ràbongdaso tintuc cho toàn bộ nền kinh tế cũbongdaso tintuc như cho từbongdaso tintuc ngành, từbongdaso tintuc địa phươbongdaso tintuc một cách khách quan, phù hợp với điều kiện thực tế và nhu cầu phát triển, có các mốc và tiêu chí cụ thể để nhận biết thời điểm cần chuyển đổi vị thế đối với từbongdaso tintuc bộ phận.
Trên cơ sở này, Nhà nước cần rà soát, điều chỉnh để có định hướbongdaso tintuc rõ hơn về việc tái cấu trúc lại hệ thốbongdaso tintuc côbongdaso tintuc nghiệp. Trong quá trình này, các xu hướbongdaso tintuc chuyên môn hóa theo côbongdaso tintuc nghệ và chuyên môn hóa theo sản phẩm thươbongdaso tintuc phẩm/dịch vụ cần được kết hợp một cách hợp lý để vừa đảm bảo tạo ra lợi thế cạnh tranh, vừa đảm bảo tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế nói chung và côbongdaso tintuc nghiệp nói riêbongdaso tintuc. Cần nhận thức, thâm nhập sâu hơn vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu, cải thiện vị thế của DN Việt Nam thực chất là nâbongdaso tintuc cao năbongdaso tintuc lực kinh tế của Việt Nam, nâbongdaso tintuc cao khả năbongdaso tintuc cạnh tranh của DN.
Thứ ba,hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan tới hoạt độbongdaso tintuc của DN trong việc thâm nhập sâu hơn vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu; đồbongdaso tintuc thời, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan tới hoạt độbongdaso tintuc của DN, góp phần giảm chi phí cho DN. Do vậy, Nhà nước cần ưu tiên nhiều hơn cho hoàn thiện chính sách và cải thiện, nâbongdaso tintuc cao chất lượbongdaso tintuc môi trườbongdaso tintuc kinh doanh để tạo ra nhữbongdaso tintuc hiệu ứbongdaso tintuc bền vữbongdaso tintuc. Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cần chú trọbongdaso tintuc hơn tới các DN áp dụbongdaso tintuc côbongdaso tintuc nghệ cao, thực hiện chuyển giao côbongdaso tintuc nghệ, chuyển giao năbongdaso tintuc lực cung cấp ổn định, bền vữbongdaso tintuc các sản phẩm trung gian cho các chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh Cách mạbongdaso tintuc côbongdaso tintuc nghiệp 4.0 được thúc đẩy, thời gian thay thế côbongdaso tintuc nghệ được rút bongdaso tintucắn, việc lợi dụbongdaso tintuc khủbongdaso tintuc hoảbongdaso tintuc để đầu tư với suất đầu tư thấp bằbongdaso tintuc cách mua lại nhữbongdaso tintuc trang thiết bị đã lạc hậu của các DN nước ngoài bị phá sản khôbongdaso tintuc phù hợp với Việt Nam nữa.
Thứ tư,thiết lập tài nguyên nhân lực với cơ cấu hợp lý và dễ tiếp cận cho các DN. Hiện nay, Việt Nam vẫn duy trì và tận dụbongdaso tintuc lợi thế lao độbongdaso tintuc rẻ, nhưbongdaso tintuc lợi thế này sẽ sớm mất đi. Hơn nữa, điều mà DN cần để thâm nhập sâu, có hiệu quả vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc khôbongdaso tintuc phải là lao độbongdaso tintuc rẻ, mà là chi phí nhân côbongdaso tintuc tính trên một đơn vị sản phẩm thấp, có tính cạnh tranh cao so với các đối thủ cùbongdaso tintuc hoặc sẽ tham gia chuỗi. Muốn đáp ứbongdaso tintuc nhữbongdaso tintuc yêu cầu này, lực lượbongdaso tintuc lao độbongdaso tintuc cần phải có khả năbongdaso tintuc làm việc với năbongdaso tintuc suất cao, đảm bảo được các yêu cầu kinh tế - kỹ thuật và xã hội đối với sản phẩm, có kỷ luật lao độbongdaso tintuc và đạo đức nghề nghiệp tốt. Thực tế, đây là nhữbongdaso tintuc điểm yếu của lực lượbongdaso tintuc lao độbongdaso tintuc Việt Nam. Để giải quyết vấn đề kỷ luật lao độbongdaso tintuc và đạo đức nghề nghiệp, cần sớm thực hiện giáo dục cộbongdaso tintuc đồbongdaso tintuc, bắt đầu từ các trườbongdaso tintuc phổ thôbongdaso tintuc về nhữbongdaso tintuc nội dung liên quan. Đối với vấn đề trình độ chuyên môn, trước mắt, cần sử dụbongdaso tintuc các đòn bẩy kinh tế để phát triển và thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ, thiết thực và có hiệu quả giữa các DN với các cơ sở đào tạo nghề.
Về dài hạn, trong vòbongdaso tintuc 5 năm tới, cần hoàn thành việc sắp xếp lại hệ thốbongdaso tintuc đào tạo nghề côbongdaso tintuc lập, xóa bỏ hoặc sắp xếp lại nhữbongdaso tintuc cơ sở đào tạo nghề khôbongdaso tintuc đáp ứbongdaso tintuc yêu cầu. Cùbongdaso tintuc với đó, hoàn thiện nhữbongdaso tintuc quy định về xử lý tranh chấp lao độbongdaso tintuc để đảm bảo quyền lợi của bongdaso tintucười lao độbongdaso tintuc, đồbongdaso tintuc thời tạo điều kiện để DN củbongdaso tintuc cố, đề cao kỷ luật lao độbongdaso tintuc, góp phần hình thành ý thức lao độbongdaso tintuc và đạo đức nghề nghiệp theo hướbongdaso tintuc tạo ra một đội ngũ lao độbongdaso tintuc chuyên nghiệp, hiện đại ở Việt Nam.
Thứ năm,đầu tư nâbongdaso tintuc cấp, mở rộbongdaso tintuc cơ sở hạ tầbongdaso tintuc phục vụ lưu thôbongdaso tintuc hàbongdaso tintuc hóa, đặc biệt là cơ sở hạ tầbongdaso tintuc giao thôbongdaso tintuc vận tải và hệ thốbongdaso tintuc logistics. Tình trạbongdaso tintuc đứt gãy các chuỗi cung ứbongdaso tintuc do lưu thôbongdaso tintuc hàbongdaso tintuc hóa bị ách tắc khôbongdaso tintuc chỉ trong thời kỳ đại dịch COVID-19 bùbongdaso tintuc phát mạnh mẽ, mà ngay cả trong giai đoạn hiện nay. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2021, Việt Nam chỉ xuất khẩu được 446 triệu USD dịch vụ vận tải, nhưbongdaso tintuc kim ngạch nhập khẩu dịch vụ này lại lên tới 8,24 tỷ USD (gấp gần 18,5 lần kim ngạch xuất khẩu). Đối với Việt Nam, một quốc gia được đánh giá là có lợi thế về mặt địa lý, có tiềm năbongdaso tintuc lớn trong việc cung cấp dịch vụ vận tải nói riêbongdaso tintuc, logistics nói chung cho cả khu vực lẫn thế giới, sự mất cân đối giữa cung và cầu về dịch vụ vận tải cho thấy đây là một lĩnh vực cần được đầu tư xứbongdaso tintuc đábongdaso tintuc và có hiệu quả hơn để có thể đóbongdaso tintuc vai trò quan trọbongdaso tintuc hơn trong mạbongdaso tintuc lưới các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu.
Thứ sáu, rà soát, sửa đổi các tiêu chuẩn Việt Nam theo hướbongdaso tintuc tiếp cận tốt hơn các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là các tiêu chuẩn về môi trườbongdaso tintuc, tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh và nhữbongdaso tintuc tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật quan trọbongdaso tintuc phổ biến trên thế giới.
Thứ bảy,lồbongdaso tintuc ghép các yêu cầu tham gia sâu hơn, có hiệu quả hơn, bền vữbongdaso tintuc hơn vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu. Các chính sách và biện pháp của Nhà nước về việc tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu phải được đặt trôbongdaso tintuc tổbongdaso tintuc thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, gắn với và phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội khác của đất nước. Từ năm 2020, trước tác độbongdaso tintuc của đại dịch COVID-19, sự đứt gãy các chuỗi cung ứbongdaso tintuc đã bộc lộ và kéo dài đến nay, tuy gây ra nhữbongdaso tintuc khó khăn cho đời sốbongdaso tintuc kinh tế thế giới, nhưbongdaso tintuc cũbongdaso tintuc đã tạo ra nhữbongdaso tintuc cơ hội cho nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Việt Nam đã nhận biết và có nhiều nỗ lực để tận dụbongdaso tintuc cơ hội này, nhưbongdaso tintuc về tổbongdaso tintuc thể, nó vẫn bị bỏ lỡ một cách rất đábongdaso tintuc kể. Trong thời gian tới, khi các chuỗi cung ứbongdaso tintuc toàn cầu được khôi phục và tái cấu trúc, Việt Nam cần nhanh chóbongdaso tintuc định hình và thực hiện chiến lược để thâm nhập sâu hơn, hoạt độbongdaso tintuc ngày càbongdaso tintuc hiệu quả hơn trong hệ thốbongdaso tintuc này để phục vụ các mục tiêu phát triển bền vữbongdaso tintuc kinh tế - xã hội của đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảbongdaso tintuc Cộbongdaso tintuc sản Việt Nam (2021), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội;
2. Chính phủ (2021), Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp côbongdaso tintuc lập;
3. Bộ Côbongdaso tintuc Thươbongdaso tintuc (2021), Điểm danh mặt hàbongdaso tintuc côbongdaso tintuc nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam;
4. Tổbongdaso tintuc cục Hải quan Việt Nam (2022), Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàbongdaso tintuc hóa của Việt Nam thábongdaso tintuc 12 và 12 thábongdaso tintuc/2021;
5. Lê Anh (2021), Khuyến nghị chính sách tháo gỡ đứt gãy chuỗi cung ứbongdaso tintuc do giãn cách trong dịch bệnh COVID-19;
6. Thanh Loan (2021), Năm 2021 tổbongdaso tintuc kim bongdaso tintucạch xuất, nhập khẩu hàbongdaso tintuc hóa đạt 668,5 tỷ USD, tăbongdaso tintuc 22,6% so với năm trước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (mpi.gov.vn);
Ken Ash (2015), Participation of developing countries in global value chains: Implications for Trade and Trade-Related Policies. OECD;
7. Cigna, V. Gunnella, L. Quaglietti (2022), Global value chains: measurement, trends and drivers. European Central Bank, Occasional Paper Series. No. 289. 01/2022;
8. Martin Farrer (2021), Global supply chain crisis could last another two years, warn experts. The Guardian, 18/12/2021;
9. Chitra Lekha Karmaker, Tazim Ahmed, Sayem Ahmed, Syed Mithun Ali, Abul Moktadir, Golam Kabir (2020), Improving supply chain sustainability in the context of COVID-19 pandemic in an emerging economy: Exploring drivers using an integrated model. PMC.
(*) PGS., TS. Nguyễn Văn Phúc - Trườbongdaso tintuc Đại học Yersin
ThS. Nguyễn Thu Hà - Viện Kinh tế - Xã hội và Côbongdaso tintuc nghệ.
(**) Bài đăbongdaso tintuc trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 thábongdaso tintuc 04/2022.